Di sản là gì? Các công bố khoa học về Di sản
Di sản là những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học, kỹ thuật, thiên nhiên, xã hội hay nghệ thuật mà được xã hội công nhận và quan tâm bảo tồn để truyền lại cho ...
Di sản là những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học, kỹ thuật, thiên nhiên, xã hội hay nghệ thuật mà được xã hội công nhận và quan tâm bảo tồn để truyền lại cho thế hệ sau. Di sản có thể là các công trình kiến trúc, tài liệu, địa điểm, truyền thống, phong tục, âm nhạc, nghệ thuật truyền thống, món ăn truyền thống, ngôn ngữ, kiến thức và kỹ năng truyền thống, hay bất cứ thứ gì có ý nghĩa văn hóa lịch sử và có giá trị đối với cộng đồng nơi nó tồn tại. Di sản không chỉ mang ý nghĩa văn hóa mà còn có thể có ý nghĩa kinh tế và du lịch, và việc bảo tồn di sản là công việc quan trọng để đảm bảo sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ.
Di sản gồm hai phần chính là di sản văn hóa và di sản thiên nhiên.
1. Di sản văn hóa:
- Di tích và công trình kiến trúc: Bao gồm các công trình kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ thuật như ngôi chùa, đền, cung điện, lâu đài, nhà thờ, đền thờ, tượng chúa, thành phố cổ, lăng mộ, ruộng bậc thang, cầu, pháo đài...
- Tài liệu và văn bản: Bao gồm các tài liệu lịch sử, sách, bàn ghi chép, bản vẽ, hát bội, bài ca truyền thống...
- Truyền thống và phong tục: Bao gồm các nghi lễ tôn giáo, lễ hội, lễ cưới, lễ tang, nghệ thuật biểu diễn dân gian, đồ thờ cúng, phòng tập thể dục truyền thống...
- Nghệ thuật và âm nhạc: Bao gồm các tác phẩm nghệ thuật truyền thống, nhạc cổ điển, nhạc dân gian, nhạc cụ truyền thống, múa rối, xiếc...
2. Di sản thiên nhiên:
- Địa danh thiên nhiên: Bao gồm các khu vực địa lí tự nhiên như dãy núi, đồng cỏ, hang động, vực sâu, rừng nguyên sinh, cảng tự nhiên, rạn san hô, bãi biển...
- Loài động và thực vật: Bao gồm các loài động và thực vật độc đáo, quý hiếm, có giá trị sinh thái và di truyền, như loài chim quý hiếm, cá lớn, các loài cây quý, sinh vật biển...
- Vùng sinh thái đặc biệt: Bao gồm các vùng đất hoặc vùng nước có hệ sinh thái phong phú, cân đối và độc đáo, như đầm ven biển, đồng cỏ, rừng ngập mặn...
Việc bảo tồn và quản lí di sản là nhiệm vụ của các tổ chức quốc tế và quốc gia, nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát huy giá trị của di sản cho cả người dân và du khách.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "di sản":
Một phương pháp đã được đưa ra để chuyển giao điện di protein từ gel polyacrylamide sang tấm nitrocellulose. Phương pháp này cho phép chuyển giao định lượng protein ribosome từ gel có chứa ure. Đối với gel natri dodecyl sulfate, mô hình ban đầu của dải vẫn giữ nguyên mà không mất độ phân giải, nhưng việc chuyển giao không hoàn toàn định lượng. Phương pháp này cho phép phát hiện protein bằng phương pháp tự động chụp ảnh phóng xạ và dễ dàng hơn so với các quy trình thông thường. Các protein cố định có thể được phát hiện bằng các quy trình miễn dịch học. Tất cả dung lượng liên kết bổ sung trên nitrocellulose được chặn bằng protein dư thừa, sau đó một kháng thể đặc hiệu được liên kết và cuối cùng, kháng thể thứ hai chống lại kháng thể thứ nhất được liên kết tiếp. Kháng thể thứ hai được đánh dấu phóng xạ hoặc liên hợp với fluorescein hoặc với peroxidase. Protein đặc hiệu sau đó được phát hiện bằng cách chụp ảnh phóng xạ tự động, dưới ánh sáng UV, hoặc bằng sản phẩm phản ứng với peroxidase, tương ứng. Trong trường hợp sau, chỉ cần 100 pg protein có thể được phát hiện rõ ràng. Dự kiến phương pháp này sẽ có thể áp dụng để phân tích nhiều loại protein khác nhau với các phản ứng hoặc liên kết đặc hiệu.
Nguyên nhân học của đột quỵ thiếu máu não ảnh hưởng đến tiên lượng, kết quả và việc quản lý. Các thử nghiệm điều trị cho bệnh nhân đột quỵ cấp nên bao gồm đo lường các phản ứng bị ảnh hưởng bởi phân nhóm của đột quỵ thiếu máu não. Một hệ thống phân loại các phân nhóm đột quỵ thiếu máu não chủ yếu dựa trên nguyên nhân học đã được phát triển cho Thử nghiệm Org 10172 trong Việc Điều Trị Đột Quỵ Cấp (TOAST).
Một phân loại các phân nhóm đã được chuẩn bị dựa trên các đặc điểm lâm sàng và kết quả của các nghiên cứu chẩn đoán phụ trợ. "Có thể" và "khả năng lớn" chẩn đoán có thể được thực hiện dựa trên mức độ chắc chắn về chẩn đoán của bác sĩ. Tính hữu ích và sự đồng thuận giữa các nhà chẩn đoán của phân loại này đã được kiểm tra bởi hai bác sĩ thần kinh không tham gia vào việc viết tiêu chí. Các bác sĩ thần kinh đã độc lập sử dụng hệ thống phân loại TOAST trong việc đánh giá tại giường 20 bệnh nhân, đầu tiên chỉ dựa trên các đặc điểm lâm sàng, sau đó là sau khi xem xét kết quả của các xét nghiệm chẩn đoán.
Hệ thống phân loại TOAST chia đột quỵ thiếu máu não thành năm phân nhóm: 1) xơ vữa động mạch lớn, 2) huyết tắc từ tim, 3) tắc vi mạch, 4) đột quỵ do nguyên nhân khác đã xác định, và 5) đột quỵ do nguyên nhân chưa xác định. Sử dụng hệ thống này, sự đồng thuận giữa các bác sĩ rất cao. Hai bác sĩ chỉ không đồng ý ở một bệnh nhân. Cả hai đều có thể đưa ra chẩn đoán nguyên nhân cụ thể ở 11 bệnh nhân, trong khi nguyên nhân gây đột quỵ không được xác định ở chín bệnh nhân.
Hệ thống phân loại phân nhóm đột quỵ TOAST dễ sử dụng và có sự đồng thuận tốt giữa những người quan sát. Hệ thống này nên cho phép các nhà nghiên cứu báo cáo các phản ứng với điều trị trong các nhóm bệnh nhân quan trọng bị đột quỵ thiếu máu não. Các thử nghiệm lâm sàng kiểm tra các phương pháp điều trị cho đột quỵ thiếu máu não cấp nên bao gồm các phương pháp tương tự để chẩn đoán phân nhóm đột quỵ.
Quá trình oxi hóa lipid có thể được mô tả chung là một quá trình mà các chất oxi hóa như các gốc tự do tấn công các lipid có chứa liên kết đôi carbon-carbon, đặc biệt là các axit béo không bão hòa đa (PUFAs). Trong bốn thập kỷ qua, một lượng lớn tư liệu về quá trình oxi hóa lipid đã cho thấy vai trò quan trọng của nó trong sinh học tế bào và sức khỏe con người. Từ đầu những năm 1970, tổng số bài báo nghiên cứu được công bố về chủ đề oxi hóa lipid chỉ là 98 (1970–1974) và đã tăng gần 135 lần, lên tới 13165 trong 4 năm qua (2010–2013). Những phát hiện mới về sự tham gia vào sinh lý và bệnh lý tế bào, cũng như việc kiểm soát quá trình oxi hóa lipid, tiếp tục xuất hiện mỗi ngày. Với sự rộng lớn của lĩnh vực này, bài tổng quan này tập trung vào các khái niệm hóa sinh của quá trình oxi hóa lipid, sản sinh, chuyển hóa, và cơ chế tín hiệu của hai sản phẩm oxi hóa lipid thuộc nhóm axit béo omega-6 chính: malondialdehyde (MDA) và đặc biệt là 4-hydroxy-2-nonenal (4-HNE), tổng hợp không chỉ về chức năng sinh lý và bảo vệ của nó như một phân tử tín hiệu kích thích sự biểu hiện gen và sự sống sót của tế bào, mà còn vai trò gây độc tế bào của nó khi ức chế biểu hiện gen và thúc đẩy cái chết tế bào. Cuối cùng, các tổng quan về các hệ thống mô hình động vật có vú
Hiện tại chưa có định nghĩa đồng thuận nào về suy thận cấp (ARF) ở những bệnh nhân nặng. Hơn 30 định nghĩa khác nhau đã được sử dụng trong tài liệu, gây ra sự nhầm lẫn và làm cho việc so sánh trở nên khó khăn. Tương tự, tồn tại cuộc tranh cãi mạnh mẽ về tính hợp lệ và sự liên quan lâm sàng của các mô hình động vật trong nghiên cứu ARF; về sự lựa chọn quản lý dịch và các tiêu chí kết thúc cho các thử nghiệm can thiệp mới trong lĩnh vực này; và về cách mà công nghệ thông tin có thể hỗ trợ quá trình này. Do đó, chúng tôi đã tiến hành xem xét bằng chứng hiện có, đưa ra khuyến nghị và xác định các câu hỏi quan trọng cho các nghiên cứu trong tương lai.
Chúng tôi đã thực hiện một cuộc tổng quan hệ thống về tài liệu bằng cách sử dụng tìm kiếm Medline và PubMed. Chúng tôi xác định một danh sách các câu hỏi chính và tổ chức một hội nghị đồng thuận kéo dài 2 ngày để phát triển các tuyên bố tóm tắt thông qua một loạt các phiên thảo luận nhóm xen kẽ và phiên toàn thể. Trong các phiên này, chúng tôi xác định bằng chứng hỗ trợ và tạo ra các khuyến nghị và/hoặc hướng đi cho nghiên cứu trong tương lai.
Chúng tôi đã tìm thấy sự đồng thuận đủ mạnh trong 47 câu hỏi để phát triển các khuyến nghị. Quan trọng, chúng tôi đã có thể phát triển một định nghĩa đồng thuận cho ARF. Trong một số trường hợp, điều cũng có thể xảy ra là đưa ra các khuyến nghị đồng thuận hữu ích cho các nghiên cứu trong tương lai. Chúng tôi trình bày một tóm tắt các phát hiện. (Các phiên bản đầy đủ của các phát hiện từ sáu nhóm làm việc có sẵn trên internet tại
Mặc dù dữ liệu còn hạn chế, có nhiều lĩnh vực đồng thuận về các nguyên tắc sinh lý học và lâm sàng cần thiết để hướng dẫn việc phát triển các khuyến nghị đồng thuận trong việc định nghĩa ARF, lựa chọn các mô hình động vật, phương pháp theo dõi liệu pháp dịch, lựa chọn các tiêu chí sinh lý học và lâm sàng cho các thử nghiệm, và vai trò tiềm năng của công nghệ thông tin.
Học máy (Machine learning) nghiên cứu vấn đề làm thế nào để xây dựng các hệ thống máy tính tự động cải thiện qua kinh nghiệm. Đây là một trong những lĩnh vực kỹ thuật phát triển nhanh chóng hiện nay, nằm tại giao điểm của khoa học máy tính và thống kê, và là cốt lõi của trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu. Tiến bộ gần đây trong học máy được thúc đẩy bởi sự phát triển của các thuật toán và lý thuyết học mới cùng với sự bùng nổ liên tục trong việc sẵn có dữ liệu trực tuyến và khả năng tính toán chi phí thấp. Việc áp dụng các phương pháp học máy dựa trên dữ liệu đã xuất hiện trong khoa học, công nghệ và thương mại, dẫn đến việc ra quyết định dựa trên bằng chứng trong nhiều lĩnh vực cuộc sống, bao gồm chăm sóc sức khỏe, sản xuất, giáo dục, mô hình tài chính, cảnh sát và tiếp thị.
A survey of pre/post-test data using the Halloun–Hestenes Mechanics Diagnostic test or more recent Force Concept Inventory is reported for 62 introductory physics courses enrolling a total number of students N=6542. A consistent analysis over diverse student populations in high schools, colleges, and universities is obtained if a rough measure of the average effectiveness of a course in promoting conceptual understanding is taken to be the average normalized gain 〈g〉. The latter is defined as the ratio of the actual average gain (%〈post〉−%〈pre〉) to the maximum possible average gain (100−%〈pre〉). Fourteen “traditional” (T) courses (N=2084) which made little or no use of interactive-engagement (IE) methods achieved an average gain 〈g〉T-ave=0.23±0.04 (std dev). In sharp contrast, 48 courses (N=4458) which made substantial use of IE methods achieved an average gain 〈g〉IE-ave=0.48±0.14 (std dev), almost two standard deviations of 〈g〉IE-ave above that of the traditional courses. Results for 30 (N=3259) of the above 62 courses on the problem-solving Mechanics Baseline test of Hestenes–Wells imply that IE strategies enhance problem-solving ability. The conceptual and problem-solving test results strongly suggest that the classroom use of IE methods can increase mechanics-course effectiveness well beyond that obtained in traditional practice.
MỤC ĐÍCH: Đã có nhiều phương pháp được đề xuất để đánh giá độ nhạy cảm insulin từ dữ liệu thu được từ thử nghiệm dung nạp glucose đường uống (OGTT). Tuy nhiên, tính hợp lệ của các chỉ số này chưa được đánh giá nghiêm ngặt bằng cách so sánh với đo lường trực tiếp độ nhạy cảm insulin được thu thập bằng kỹ thuật kẹp insulin euglycemic. Trong nghiên cứu này, chúng tôi so sánh các chỉ số nhạy cảm insulin khác nhau thu được từ OGTT với độ nhạy cảm insulin toàn cơ thể được đo bằng kỹ thuật kẹp insulin euglycemic. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong nghiên cứu này, 153 đối tượng (66 nam và 87 nữ, trong độ tuổi 18-71 tuổi, BMI từ 20-65 kg/m2) với các mức độ dung nạp glucose khác nhau (62 đối tượng có dung nạp glucose bình thường, 31 đối tượng bị suy giảm dung nạp glucose và 60 đối tượng mắc tiểu đường type 2) đã được nghiên cứu. Sau khi nhịn ăn suốt 10 giờ qua đêm, tất cả đối tượng được thực hiện, theo thứ tự ngẫu nhiên, một thử nghiệm OGTT 75 g và một kỹ thuật kẹp insulin euglycemic, được thực hiện với truyền dịch [3-3H]glucose. Các chỉ số độ nhạy cảm insulin thu được từ dữ liệu OGTT và kẹp insulin euglycemic được so sánh bằng phân tích tương quan. KẾT QUẢ: Nồng độ glucose huyết tương trung bình chia cho nồng độ insulin huyết tương trung bình trong OGTT không hiển thị tương quan với tỉ lệ tiêu thụ glucose toàn cơ thể trong kẹp insulin euglycemic (r = -0.02, NS). Từ OGTT, chúng tôi đã phát triển một chỉ số nhạy cảm insulin toàn cơ thể (10,000/căn thức bậc hai của [glucose khi đói x insulin khi đói] x [glucose trung bình x insulin trung bình trong OGTT]), có tương quan cao (r = 0.73, P < 0.0001) với tỉ lệ tiêu thụ glucose toàn cơ thể trong kẹp insulin euglycemic. KẾT LUẬN: Các phương pháp trước đây đã được sử dụng để tạo ra chỉ số nhạy cảm insulin từ OGTT dựa vào tỷ lệ nồng độ glucose huyết tương so với nồng độ insulin trong OGTT. Kết quả của chúng tôi chỉ ra hạn chế của phương pháp này. Chúng tôi đã phát triển một ước tính mới về độ nhạy cảm insulin, đơn giản để tính toán và cung cấp một phép xấp xỉ hợp lý cho độ nhạy cảm insulin toàn cơ thể từ OGTT.
Bốn người phát triển triệu chứng Parkinson rõ rệt sau khi sử dụng một loại thuốc lậu qua đường tiêm tĩnh mạch. Phân tích chất được tiêm bởi hai bệnh nhân này chủ yếu là 1-methyl-4-phenyl-1,2,5,6-tetrahydropyridine (MPTP) với một lượng vết của 1-methyl-4-phenyl-4-propionoxy-piperidine (MPPP). Dựa trên các đặc điểm Parkinson rõ nét quan sát được ở bệnh nhân của chúng tôi, và dữ liệu bệnh lý bổ sung từ một trường hợp đã được báo cáo trước đó, chúng tôi đề xuất rằng hóa chất này gây tổn thương có chọn lọc các tế bào ở vùng substantia nigra.
Mặc dù đã có nhiều hệ thống phân tích nguy cơ tiên lượng khác nhau để đánh giá kết quả lâm sàng cho bệnh nhân mắc hội chứng loạn sản tủy (MDS), sự không chính xác vẫn tồn tại trong các phân tích này. Để cố gắng cải thiện các hệ thống này, một Hội thảo Phân tích Nguy cơ MDS Quốc tế đã kết hợp dữ liệu tế bào học, hình thái và lâm sàng từ bảy nghiên cứu lớn đã được báo cáo trước đó, những nghiên cứu này đã tạo ra các hệ thống tiên lượng. Một phân tích toàn cầu đã được thực hiện trên các bệnh nhân này và các biến tiên lượng quan trọng đã được đánh giá lại để tạo ra một hệ thống tiên lượng đồng thuận, đặc biệt là sử dụng một phân loại tế bào học tủy xương (BM) tinh vi hơn. Phân tích đơn biến cho thấy các biến chính ảnh hưởng đến kết quả bệnh tật đối với sự tiến triển thành bệnh bạch cầu tủy cấp tính là các bất thường tế bào học, tỷ lệ bạch cầu tiền thân tủy xương và số lượng giảm bạch cầu; đối với tỷ lệ sống sót, ngoài những biến trên, còn bao gồm tuổi tác và giới tính. Các nhóm tế bào học có kết quả như sau: “kết quả tốt” là bình thường, −Y một mình, del(5q) một mình, del(20q) một mình; “kết quả kém” là phức tạp (tức là, ≥3 bất thường) hoặc bất thường nhiễm sắc thể 7; và “kết quả trung bình” là các bất thường khác. Phân tích đa biến đã kết hợp các nhóm tế bào học này với tỷ lệ bạch cầu tủy và số lượng giảm bạch cầu để tạo ra một mô hình tiên lượng. Việc cân nhắc các biến này theo sức mạnh thống kê đã tách biệt bệnh nhân thành các nhóm nguy cơ khác nhau với 25% bệnh nhân có nguy cơ chuyển biến thành bệnh bạch cầu tủy cấp tính, với: thấp (31% bệnh nhân), 9.4 năm; trung bình-1 (INT-1; 39%), 3.3 năm; INT-2 (22%), 1.1 năm; và cao (8%), 0.2 năm. Các đặc điểm này cũng tách biệt bệnh nhân thành các nhóm nguy cơ tương tự cho sống trung bình: thấp, 5.7 năm; INT-1, 3.5 năm; INT-2, 1.2 năm; và cao, 0.4 năm. Phân tầng theo tuổi tác đã cải thiện thêm phân tích về tỷ lệ sống sót. So với các phân loại dựa trên nguy cơ trước đây, Hệ thống Điểm số Tiên lượng Quốc tế này cung cấp một phương pháp cải thiện để đánh giá tiên lượng trong MDS. Hệ thống phân loại này nên được sử dụng hữu ích cho việc thiết kế và phân tích tinh vi hơn trong các thử nghiệm điều trị cho bệnh này.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10